Chia sẻ:
Vua A-khát cai trị Giu-đa (736-716) (2 Sb 28:1-27)
1 Năm thứ mười bảy triều vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, con vua Giô-tham, vua Giu-đa, là A-khát, lên làm vua. 2 A-khát lên ngôi vua khi được hai mươi tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua đã không làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, như vua Ða-vít, tổ phụ vua. 3 Vua đã đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, và thậm chí còn làm lễ thiêu con trai mình, theo các thói ghê tởm của các dân mà Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. 4 Vua đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh.
5 Bấy giờ, vua A-ram là Rơ-xin, và vua Ít-ra-en là Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, lên đánh Giê-ru-sa-lem. Họ vây hãm vua A-khát, nhưng không đánh thắng được. 6Thuở ấy, vua A-ram là Rơ-xin đem Ê-lát về lại cho A-ram. Vua đuổi người Giu-đa khỏi Ê-lát. Người A-ram lại vào Ê-lát và tiếp tục ở đó cho đến ngày nay. 7 Vua A-khát sai sứ giả đến nói với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe: "Tôi là tôi tớ, là con cái của ngài. Xin ngài lên cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua Ít-ra-en, họ nổi lên chống tôi." 8 Vua A-khát lấy bạc vàng có trong Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua mà gửi tặng vua Át-sua. 9 Vua Át-sua nhận lời, tiến lên đánh Ða-mát và chiếm được thành đó. Vua đày dân đến thành Kia và giết vua Rơ-xin.
10 Vua A-khát đi Ða-mát gặp vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Khi nhìn thấy bàn thờ ở Ða-mát, vua A-khát gửi cho tư tế U-ri-gia hoạ đồ kiểu mẫu của bàn thờ, và mọi chi tiết chỉ dẫn cách làm. 11 Tư tế U-ri-gia xây bàn thờ: tất cả những chỉ thị vua A-khát gửi về từ Ða-mát, tư tế U-ri-gia đều thi hành đúng như thế, trong khi chờ vua A-khát từ Ða-mát về. 12 Khi từ Ða-mát về, vua nhìn thấy bàn thờ, lại gần, rồi tiến lên. 13 Vua cho đốt của lễ toàn thiêu, lễ phẩm, tưới rượu tế và lấy máu những con vật của hy lễ kỳ an rảy lên bàn thờ. 14 Còn bàn thờ bằng đồng ở trước nhan Ðức Chúa, ở giữa bàn thờ mới và Nhà Ðức Chúa, vua dời đi khỏi phía trước Nhà Ðức Chúa, và đặt bên cạnh bàn thờ mới, ở phía bắc. 15 Rồi vua A-khát truyền lệnh cho tư tế U-ri-gia rằng: "Trên bàn thờ lớn, ông sẽ cho đốt của lễ toàn thiêu ban sáng và lễ phẩm ban chiều, lễ toàn thiêu, lễ phẩm của vua, lễ toàn thiêu, lễ phẩm và các lễ tưới rượu của toàn dân trong xứ. Ông sẽ rảy trên bàn thờ tất cả máu của các lễ toàn thiêu và của các hy lễ. Còn bàn thờ bằng đồng thì ta sẽ tính sau." 16 Tư tế U-ri-gia đã thi hành đúng mệnh lệnh vua A-khát.
17 Vua A-khát bẻ gẫy các đòn ngang và các giàn: vua cất các bồn nước đặt ở trên đi. Bể nước bằng đồng kê trên những con bò, thì vua hạ xuống mà đặt trên một nền đá.18 Ðể được lòng vua Át-sua, vua thay đổi vị trí trong Nhà Ðức Chúa: hành lang ngày sa-bát xây trong Nhà Ðức Chúa, và lối vào của vua nằm ở bên ngoài.
19 Các truyện còn lại của vua A-khát, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 20 Vua A-khát đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành Ða-vít. Con vua là Khít-ki-gia-hu lên ngôi kế vị.
- Chương 17 -
Vua Hô-sê cai trị Ít-ra-en (732-724)
1 Năm thứ mười hai triều A-khát, vua Giu-đa, con ông Ê-la là Hô-sê lên làm vua cai trị Ít-ra-en chín năm, ở Sa-ma-ri. 2 Vua đã làm diều dữ trái mắt Ðức Chúa, tuy không bằng các vua Ít-ra-en trước. 3 Vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh vua. Vua Hô-sê đã phải làm tôi và triều cống vua ấy. 4 Nhưng vua Át-sua khám phá ra là vua Hô-sê âm mưu phản loạn: vua đã sai sứ giả đến với vua Ai-cập là Xô, và không còn triều cống vua Át-sua như hằng năm trước đây. Vua Át-sua cho bắt vua Hô-sê, xiềng lại và bỏ tù.
Sa-ma-ri thất thủ (721)
5 Vua Át-sua tiến đánh cả xứ, đến Sa-ma-ri và vây hãm thành này ba năm. 6 Năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Át-sua chiếm được Sa-ma-ri và đày Ít-ra-en sang Át-sua. Vua cho họ định cư ở Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi.
Suy gẫm về vương quốc Ít-ra-en suy tàn
7 Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Ðấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác. 8 Họ theo những thói tục của các dân Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en và những thói tục các vua Ít-ra-en đã tạo ra.9 Con cái Ít-ra-en đã thốt những lời bất xứng phạm đến Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ; họ xây cho mình các tế đàn ở nơi cao trong mọi thành của họ, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố. 10 Họ đã dựng các trụ đá và cột thờ trên mọi đồi cao và dưới mọi cây xanh. 11 Ở đó, trên mọi tế đàn ở nơi cao, họ đã đốt hương như các dân Ðức Chúa đã đày cho khuất mặt họ, và họ đã làm những việc xấu xa để trêu giận Người. 12 Họ phụng thờ những ngẫu tượng, mặc dù Ðức Chúa đã phán với họ: "Các ngươi sẽ không được làm điều đó."
13 Nhưng Ðức Chúa đã dùng tất cả các ngôn sứ và các thầy chiêm mà cảnh cáo Ít-ra-en và Giu-đa: "Hãy trở lại, bỏ con đường tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo Lề Luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi, và Ta đã chuyển đến các ngươi nhờ các ngôn sứ tôi trung của Ta." 14 Nhưng họ đã không nghe lời, họ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, những người không tin vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. 15 Họ đã khinh dể những quy luật của Người, cũng như giao ước Người đã lập với cha ông họ và những chỉ thị Người đã truyền cho họ. Họ đã đi theo thần hư ảo, và chính họ cũng trở nên hư ảo, theo các dân ngoại ở chung quanh họ, mặc dầu Ðức Chúa đã truyền cho họ không được làm như các dân đó. 16 Họ đã bỏ tất cả các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và họ đã đúc cho mình tượng hai con bê; họ đã dựng cột thờ, sụp xuống lạy toàn thể thiên binh và phụng thờ Ba-an. 17 Họ đã làm lễ thiêu con trai con gái họ; họ làm nghề bói toán, nghề phù thuỷ, và họ bán mình để làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, để trêu giận Người. 18 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đẩy Ít-ra-en cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi tộc Giu-đa.
19 Cả Giu-đa nữa cũng không tuân giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của mình, và theo những thói tục Ít-ra-en đã tạo ra. 20 Vì thế, Ðức Chúa đã từ bỏ toàn thể dòng giống Ít-ra-en; Người đã hành hạ và nộp họ vào tay quân cướp cho đến khi xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 21 Người đã tách Ít-ra-en khỏi nhà Ða-vít và họ đã tôn con ông Nơ-vát là Gia-róp-am làm vua. Vua Gia-róp-am đã thúc đẩy Ít-ra-en rời bỏ Ðức Chúa và làm cho họ phạm một tội lớn. 22 Con cái Ít-ra-en đã bắt chước vua mà phạm mọi tội vua đã phạm, họ không dứt bỏ các tội đó, 23 đến nỗi Ðức Chúa đẩy Ít-ra-en đi cho khuất nhan Người, như Người đã dùng mọi ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán. Ít-ra-en đã bị đày biệt xứ sang Át-sua cho đến ngày nay.
Nguồn gốc người Sa-ma-ri
24 Vua Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này.
25 Ban đầu, khi mới định cư ở đó, họ không kính sợ Ðức Chúa, nên Người đã sai sư tử đến phá phách họ và giết hại nhiều người. 26 Họ nói với vua Át-sua: "Các dân mà vua đã cho đi đày, và định cư ở thành xứ Sa-ma-ri, không biết cách tôn thờ vị thần của xứ. Vì thế, vị thần đó đã sai sư tử đến phá phách và giết chết họ, bởi họ không biết cách tôn thờ vị thần của xứ." 27 Vua Át-sua mới truyền lệnh sau đây: "Hãy đưa một trong những tư tế mà ta đã cho đi đày, trở lại đó; tư tế ấy phải đến định cư ở đó và dạy họ biết cách tôn thờ vị thần của xứ." 28 Bấy giờ, một trong những tư tế Sa-ma-ri, đã bị đi đày, tới định cư ở Bết Ên và dạy họ biết cách kính sợ Ðức Chúa.
29 Nhưng mỗi dân lại tạc tượng thần của mình và đặt trong các miếu ở nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây; họ đã làm như vậy trong thành họ ở. 30 Người Ba-by-lon tạc tượng thần Xúc-cốt Bơ-nốt, người Cu-tha tạc tượng thần Néc-gan, người Kha-mát tạc tượng thần A-si-ma, 31 Người A-va tạc tượng thần Níp-khát và Tác-tắc; còn người Xơ-phác-va-gim thì làm lễ thiêu con trai của họ để kính Át-ram-me-léc và A-nam-me-léc, các thần của dân Xơ-phác-va-gim. 32 Họ cũng kính sợ Ðức Chúa, và chọn những người cùng nhóm làm tư tế phục vụ tại các tế đàn ở nơi cao và tế lễ cho họ trong các miếu ở nơi cao. 33 Họ kính sợ Ðức Chúa nhưng cũng phụng thờ các thần của họ, theo cách tôn thờ của các dân mà họ đã rời bỏ khi bị đi đày. 34 Cho đến ngày nay họ vẫn theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
Người Ít-ra-en đã không kính sợ Ðức Chúa, cũng không hành động theo những quy tắc, những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho con cái ông Gia-cóp, người cũng được gọi tên là Ít-ra-en. 35 Ðức Chúa đã lập giao ước với họ và truyền lệnh cho họ: "Các ngươi không được kính sợ các thần khác và không được sụp xuống lạy chúng; các ngươi không được phụng thờ và tế lễ chúng. 36 Nhưng chính Ðức Chúa, Ðấng đã dùng sức mạnh lớn lao và cánh tay uy quyền đưa các ngươi lên từ Ai-cập, chính Người là Ðấng các ngươi phải kính sợ, phải sụp xuống lạy và phải tế lễ. 37 Những quy luật, những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Người đã truyền ghi chép cho các ngươi, các ngươi phải tuân giữ, phải thi hành mọi ngày. Các ngươi không được kính sợ các thần khác. 38 Giao Ước Ta đã lập với các ngươi, các ngươi không được quên; và các ngươi không được kính sợ các thần khác. 39 Nhưng chính Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi, là Ðấng các ngươi phải kính sợ. Người sẽ giải thoát các ngươi khỏi tay mọi địch thù của các ngươi." 40 Người Sa-ma-ri đã không nghe lời, họ cứ theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
41 Như thế, các dân ấy đã kính sợ Ðức Chúa, nhưng cũng phụng thờ các ngẫu tượng của họ; con cái cháu chắt họ cũng làm như cha ông họ cho đến ngày nay.
- Chương 18 -
VIII. Những Giai Ðoạn Cuối Cùng Của Vương Quốc Giu-Ða
1. Vua Khít-Ki-Gia, Ngôn Sứ I-Sai-A Và Nước Át-Sua
Dẫn nhập vào triều vua Khít-ki-gia (716-687) (2 Sb 29:1-2; 31:1)
1 Năm thứ ba triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, con vua A-khát, vua Giu-đa, là Khít-ki-gia lên làm vua. 2 Khi lên ngôi, vua được hai mươi lăm tuổi và trị vì hai mươi chín năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-vi, con gái ông Dơ-khác-gia. 3 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, đúng như vua Ða-vít, tổ phụ vua đã làm.4 Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các cột thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.
5 Vua đã đặt niềm tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Sau vua, chẳng có vua Giu-đa nào được như thế, cũng như trước vua chẳng có ai được như vậy. 6Vua gắn bó với Ðức Chúa, không bỏ Người; vua tuân giữ các mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 7 Vì thế, Ðức Chúa đã ở với vua; vua tra tay làm việc gì thì cũng thành công. Vua nổi lên chống lại vua Át-sua và không còn chịu phục tùng vua ấy nữa. 8 Chính vua đã đánh đuổi quân Phi-li-tinh cho đến Ga-da và ranh giới của thành ấy, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
Nhắc lại chuyện Sa-ma-ri thất thủ
9 Năm thứ tư triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ bảy triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh và vây thành Sa-ma-ri. 10Sau ba năm, người ta chiếm được thành. Sa-ma-ri thất thủ vào năm thứ sáu triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Ít-ra-en. 11 Vua Át-sua đày Ít-ra-en sang Át-sua và cho lập cư tại Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi, 12 vì họ đã không nghe lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và đã vi phạm giao ước của Người; tất cả những gì ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền, họ đều không nghe theo và thi hành.
Cuộc xâm lăng của vua Xan-khê-ríp (Es 36:1)
13 Năm thứ mười bốn triều vua Khít-ki-gia, vua Át-sua là Xan-khê-ríp tiến lên đánh mọi thành kiên cố của Giu-đa và đã chiếm được. 14 Vua Giu-đa là Khít-ki-gia mới sai người đến nói với vua Át-sua ở La-khít: "Tôi có tội, xin ngài lui binh cho, ngài bắt nộp gì, tôi cũng chịu." Vua Át-sua bắt vua Khít-ki-gia phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. 15 Vua Khít-ki-gia nộp tất cả số bạc có trong Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua. 16 Chính vào thời đó, vua Khít-ki-gia đập gẫy các cánh cửa của đền thờ Ðức Chúa, cũng như các khung cửa mà..., vua Giu-đa, đã bọc bằng kim khí, lấy nộp cho vua Át-sua.
Sứ mạng của quan chánh chước tửu (2 Sb 32:9-19; Es 36:2-22)
17 Từ La-khít, vua Át-sua sai tướng tổng tư lệnh, quan thái giám và quan chánh chước tửu, cùng với một đạo binh hùng hậu, đến gặp vua Khít-ki-gia ở Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Họ đứng gần kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. 18 Họ cho mời vua đến. Ra đón tiếp họ có ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, đại nội thị thần, cũng như viên ký lục Sép-na và viên quản lý văn khố Giô-ác, con ông A-xáp. 19 Viên chánh chước tửu bảo họ: "Hãy nói với vua Khít-ki-gia: đại đế là vua Át-sua phán thế này: "Dựa vào niềm tin nào mà ông tin tưởng như thế? 20 Ông tưởng rằng trong cuộc chiến, lời nói suông ngoài miệng thay thế được cho mưu kế và sức mạnh sao? Giờ đây, ông tin tưởng vào ai mà dám nổi loạn chống ta? 21 Hoá ra ông tin tưởng vào cây gậy sậy dập nát là Ai-cập; nó sẽ đâm thủng bàn tay kẻ vịn vào nó! Pha-ra-ô vua Ai-cập là vậy đó, đối với mọi kẻ tin tưởng vào ông ta. 22 Có thể ông sẽ nói với tôi: "Chúng tôi tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi. Thế chẳng phải Khít-ki-gia đã dẹp các nơi cao và các bàn thờ của Người đó sao? Ông ta đã chẳng nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi sẽ sụp lạy trước bàn thờ này ở Giê-ru-sa-lem? 23 Bây giờ ông hãy đánh cuộc với vua Át-sua chúa thượng tôi: Tôi cho ông hai ngàn con ngựa nếu ông tìm được người cưỡi. 24 Liệu ông có thể đẩy lui được một người thuộc hạng dở nhất trong nhóm bộ hạ của chúa thượng tôi không? Thế mà ông lại cậy vào Ai-cập để có xe, có ngựa! 25 Bây giờ có phải ngoài ý muốn của Ðức Chúa mà ta đã tiến đánh để tàn phá nơi này không? Chính Ðức Chúa đã phán với ta: "Hãy tiến đánh và tàn phá xứ này!"
26 Ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, ông Sép-na và ông Giô-ác nói với viên chánh chước tửu: "Xin ngài dùng tiếng A-ram mà nói vì các tôi tớ ngài đây hiểu được. Ngài đừng nói tiếng Giu-đa với chúng tôi, kẻo dân ở trên tường thành nghe được." 27 Viên chánh chước tửu nói: "Chẳng lẽ Chúa thượng tôi sai tôi đến nói những lời như thế với chúa thượng của ông hay với ông sao? Chẳng phải là để nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, đang phải ăn phân và uống nước tiểu của mình, cùng với các ông sao?"
28 Bấy giờ, viên chánh chước tửu đứng thẳng và hô lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: "Hãy nghe lời đại đế, vua Át-sua: 29 Ðức vua phán thế này: Ðừng để Khít-ki-gia lừa dối các ngươi, vì ông ta không thể nào giải thoát các ngươi khỏi tay ta được. 30 Cũng đừng để Khít-ki-gia dụ dỗ các ngươi tin tưởng vào Ðức Chúa khi ông ta nói: Chắc chắn Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta, và thành này sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 31 Ðừng nghe lời Khít-ki-gia, vì vua Át-sua phán thế này: Hãy làm hoà với ta và ra đây; ai nấy trong các ngươi vẫn được ăn hoa trái trong vườn nho, vườn vả của mình, vẫn được uống nước bể nhà mình, 32 cho tới khi ta đến đem các ngươi tới một xứ giống như xứ các ngươi, một xứ có lúa mì và rượu, xứ có bánh, có vườn nho và vườn ô-liu, xứ có dầu tươi và mật ong; như vậy, các ngươi sẽ được sống và khỏi phải chết. Ðừng nghe lời Khít-ki-gia, vì ông ta phỉnh gạt các ngươi khi nói: Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta. 33 Hỏi rằng trong các thần của chư dân, đã có vị nào thực sự giải thoát xứ mình khỏi tay vua Át-sua chưa? 34 Các thần của Kha-mát và Ác-pát ở đâu? Các thần của Xơ-phác-va-gim, của Hê-na và I-va ở đâu? Họ có giải thoát được Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các xứ, hỏi đã có thần nào cứu được xứ của họ thoát khỏi tay ta chưa? Vậy Ðức Chúa cứu nổi Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta sao?"
36 Dân làm thinh, không đáp một lời; vì vua đã ra lệnh: "Các ngươi đừng đáp lại hắn!" 37 Ông En-gia-kim, đại nội thị thần, con ông Khin-ki-gia vào yết kiến vua Khít-ki-gia-hu cùng với ông Sép-na, ký lục, và ông Giô-ác, quản lý văn khố, con ông A-xáp. Họ xé áo mình ra, kể lại cho vua nghe những lời viên chánh chước tửu đã nói.
- Chương 19 -
Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a (Es 37:1-7)
1 Nghe thế, vua Khít-ki-gia liền xé áo mình ra, khoác áo vải thô, vào Nhà Ðức Chúa. 2 Vua sai ông En-gia-kim, đại nội thị thần, ông Sép-na, ký lục, và các kỳ mục trong hàng tư tế, tất cả đều khoác áo vải thô, đến gặp ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc. 3 Họ thưa: "Vua Khít-ki-gia phán thế này: Hôm nay là một ngày khốn quẫn, ngày trừng phạt, ngày ô nhục. Vì đã đến lúc con lọt lòng, mà mẹ lại không có sức sinh! 4 Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông nghe thấy tất cả những lời của viên chánh chước tửu là người đã được vua Át-sua, chúa thượng hắn, sai đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống; ước gì Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, trừng phạt vì những lời Người đã nghe thấy. Xin ông dâng lời cầu nguyện cho số sót còn lại."
5 Khi các thuộc hạ của vua Khít-ki-gia đến gặp ông I-sai-a, 6 ông I-sai-a bảo họ: "Các vị sẽ thưa với chúa thượng của các vị như sau: Ðức Chúa phán thế này: "Ðừng sợ những lời ngươi đã nghe, những lời mà các tên hầu của vua Át-sua đã xúc phạm đến Ta. 7 Này Ta sẽ đặt nơi nó một thần khí; khiến nó vừa nghe một tin đồn, liền rút lui về nước. Ta sẽ làm cho nó bị gươm đâm gục ngã ngay tại xứ sở nó."
Viên chánh chước tửu trở về (Es 37:8-9a)
8 Viên chánh chước tửu trở về gặp lúc vua Át-sua đang giao chiến với Líp-na. Quả thật, ông nghe biết vua đã rời La-khít, 9 vì vua nhận được tin nói về vua Cút là Tia-ha-ca: "Kìa vua ấy đã ra quân để giao chiến với ngài."
Thư của Xan-khê-ríp gửi vua Khít-ki-gia (Is 37 :9b-20)
Vua Xan-khê-ríp lại sai sứ giả đến với vua Khít-ki-gia, vua bảo họ: 10 "Các ngươi sẽ nói với Khít-ki-gia, vua Giu-đa, thế này: Ðừng để Thiên Chúa của ông là Ðấng ông tin tưởng, lừa dối ông rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 11 Này, ông thừa biết các vua Át-sua đã xử thế nào với tất cả các nước: Các vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được? 12 Thế các thần của chư dân mà cha ông ta đã tiêu diệt, tức là các dân Gô-dan, Kha-ran, Re-xép, và con cái ông E-đen ở Tơ-la-xa, có giải thoát được các dân ấy không? 13 Các vua của Kha-mát, của Ác-pát, của La-ia, Xơ-phác-va-gim, Hê-na, I-va đâu cả rồi?"
14 Vua Khít-ki-gia cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên Nhà Ðức Chúa, mở thư ra trước nhan Ðức Chúa. 15 Vua cầu nguyện trước nhan Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng ngự trên các Kê-ru-bim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài mới là Thiên Chúa thống trị mọi vương quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời đất. 16 Lạy Ðức Chúa, xin lắng tai nghe, lạy Ðức Chúa, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe rõ những lời Xan-khê-ríp là kẻ đã sai người đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống. 17 Quả thật, lạy Ðức Chúa, các vua Át-sua đã tàn phá các dân và xứ sở của họ, 18 quăng các tượng thần của họ vào lửa, vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được. 19 Nhưng giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng con, xin đoái thương cứu chúng con khỏi tay vua ấy, để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính Ngài, và chỉ một mình Ngài mới là Thiên Chúa, lạy Ðức Chúa!"
Ông I-sai-a can thiệp (Es 37:21-35)
20 Ông I-sai-a con ông A-mốc, sai người đến tâu vua Khít-ki-gia rằng: "Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện về vụ Xan-khê-ríp, vua Át-sua. 21 Ðây lời Ðức Chúa kết tội nó:
Trinh nữ, cô gái Xi-on khinh dể, nhạo báng ngươi;
sau lưng ngươi, cô gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu!
22 Ngươi đã thoá mạ, lăng nhục ai,
đã lớn tiếng, vênh mặt khinh khi ai,
nếu không phải là chính Ðấng Thánh của Ít-ra-en!
23 Ngươi đã dùng sứ giả mà phỉ báng Chúa Thượng,
và ngươi nói rằng: "Với vô vàn chiến xa, ta trèo lên đỉnh núi,
lên những ngọn cao chót vót của Li-băng.
Ta đốn những cây bá hương cao vút,
những ngọn tùng bách đẹp tuyệt.
Ta vào tận sào huyệt cuối cùng, tới rừng cây thăm thẳm.
24 Chính ta đã đào giếng, đã uống nước của ngoại bang;
ta đã làm cạn khô mọi sông ngòi Ai-cập dưới đôi bàn chân ta.
25 Phải chăng ngươi không hề nghe biết
Ta đã làm những điều ấy từ lâu?
Những điều Ta dự tính từ những ngày xa xưa,
giờ đây Ta thực hiện:
là phá tan những thành trì kiên cố,
khiến chúng trở nên đống đá vụn hoang tàn.
26 Cư dân của chúng đành bó tay và thẹn thùng khiếp đảm.
Khác nào cỏ đồng nội, tựa đám cỏ xanh tươi,
đám cỏ mọc mái nhà, hoặc như cây lúa héo
chưa kịp vươn lên cao.
27 Khi ngươi ngồi, ngươi đứng, lúc ngươi ra, lúc ngươi vào,
Ta đều biết rõ cả; ngay lúc ngươi nổi giận với Ta, Ta cũng biết.
28 Bởi vì ngươi nổi giận với Ta,
và những lời ngạo mạn đã thấu tận tai Ta,
nên Ta sẽ xỏ vòng vào mũi, tra hàm thiếc vào môi ngươi.
Trên chính con đường ngươi đã tới, Ta sẽ bắt ngươi phải lui về.
29 Ðây sẽ là dấu hiệu cho ngươi:
Năm nay ăn lúa chét;
năm tới có lúa trổi;
đến năm thứ ba, hãy gieo, hãy gặt,
hãy trồng nho mà ăn trái.
30 Trong nhà Giu-đa, những gì đã thoát chết,
những gì còn sót lại, sẽ cứ tiếp tục đâm rễ sâu
và trên cao trổ sinh hoa trái.
31 Vì từ Giê-ru-sa-lem, sẽ nảy sinh số còn sót lại,
và từ núi Xi-on, sẽ xuất hiện những người thoát chết.
Vì yêu thương cuồng nhiệt, Ðức Chúa sẽ thực hiện điều đó.
32 Về vua Át-sua Ðức Chúa phán như sau:
Nó sẽ không vào được thành này,
không bắn được mũi tên tới đó,
không núp sau thuẫn mà xông lên,
cũng chẳng đắp ụ để công phá.
33 Nó sẽ phải quay về, theo chính con đường nó đã đến,
chứ thành này thì nó không vào được.
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
34 Vì Ta và vì Ða-vít, tôi tớ của Ta
chính Ta sẽ che chở và sẽ cứu thành này."
Vua Xan-khê-ríp bại trận và chết (Es 37:36-38)
35 Chính đêm ấy, thiên sứ của Ðức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây ma xác chết.
36 Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê và ở lại đó. 37 Nhưng rồi, khi ông đang sụp xuống lạy thần Nít-rốc của ông trong đền thờ, thì các con ông là Át-ram-me-léc và Sa-re-xe dùng gươm đâm ông chết, rồi trốn sang xứ A-ra-rát. Con vua là Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị.
- Chương 20 -
Vua Khít-ki-gia lâm bệnh và được khỏi (Es 38:1-8,21-22;2 Sb 32:24-26)
1 Trong những ngày ấy, vua Khít-ki-gia lâm bệnh nguy tử. Ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc, đến gặp vua và nói: "Ðức Chúa phán thế này: Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết chứ không sống nổi đâu." 2 Vua quay mặt vào tường, và cầu nguyện với Ðức Chúa như sau: 3 "Ôi, lạy Ðức Chúa, xin Ngài nhớ cho, con đã trung tín và thành tâm bước đi trước nhan Ngài, đã thi hành điều đẹp mắt Ngài." Rồi vua Khít-ki-gia khóc, khóc thật to.
4 Ông I-sai-a chưa ra đến sân giữa, thì lời Ðức Chúa phán với ông: 5 "Hãy quay lại nói với Khít-ki-gia, thủ lãnh dân Ta: Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ða-vít, tổ tiên ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi, ba ngày nữa, ngươi sẽ lên Nhà Ðức Chúa. 6 Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải thoát ngươi cùng với thành này khỏi tay vua Át-sua, và sẽ che chở thành này, vì Ta và vì Ða-vít, tôi tớ của Ta."
7 Ông I-sai-a nói: "Hãy lấy một cái bánh vả." Người ta đi lấy, đặt trên ung nhọt và vua sống được.
8 Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Tôi dựa vào dấu hiệu nào để biết Ðức Chúa sẽ chữa lành tôi, và ba ngày nữa tôi sẽ lên Nhà Ðức Chúa?" 9 Ông I-sai-a trả lời: "Ðây là dấu Ðức Chúa ban cho ngài, chứng tỏ Ðức Chúa sẽ thực hiện điều Người đã phán: Vua muốn bóng tiến mười độ hay lùi mười độ?" 10 Vua Khít-ki-gia nói: "Bóng ngả thêm mười độ: điều đó quá dễ! Không! Xin cho bóng lùi mười độ!" 11 Ngôn sứ I-sai-a cầu khẩn Ðức Chúa, và Người cho bóng lùi lại mười độ, so với bóng đã ngả trên bậc thang mà vua A-khát đã xây.
Các sứ giả của vua Mơ-rô-đác Ba-la-đan (Es 39:1-8)
12 Khi ấy, vua Ba-by-lon là Mơ-rô-đác Ba-la-đan, con ông Ba-la-đan, sai người đem thư và quà tặng cho vua Khít-ki-gia, vì nghe tin vua bị bệnh. 13 Sau khi nghe các sứ giả, vua Khít-ki-gia cho họ xem mọi kho tàng của vua, vàng bạc, hương liệu, dầu quý, kho vũ khí và tất cả những gì có trong các nơi dự trữ của vua, không có gì trong cung điện và trong toàn lãnh thổ mà vua Khít-ki-gia không cho họ xem.
14 Ngôn sứ I-sai-a vào gặp vua Khít-ki-gia và nói: "Những người ấy đã nói gì với vua, và họ từ đâu tới?" Vua Khít-ki-gia đáp: "Họ từ một xứ xa xôi, mãi tận Ba-by-lon đến đây." 15 Ông hỏi: "Họ thấy gì trong cung điện của ngài?" Vua đáp: "Trong cung điện của tôi có gì, họ thấy hết cả. Không có gì trong các kho dự trữ mà tôi không cho họ xem."
16 Bấy giờ, ông I-sai-a nói với vua Khít-ki-gia: "Xin vua nghe lời của Ðức Chúa: 17 Này, sẽ đến những ngày mọi sự trong cung điện ngươi, tất cả những gì xưa nay tổ tiên ngươi đã tích trữ đều bị đem đi Ba-by-lon, không còn lại một thứ gì, Ðức Chúa phán. 18 Một số con cái ngươi, xuất thân từ ngươi, do chính ngươi sinh ra, sẽ bị bắt đi làm thái giám trong hoàng cung của vua Ba-by-lon." 19 Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Lời Ðức Chúa ông vừa truyền lại quả là tốt." Vua tự nhủ: "Sao lại không? Miễn là có hoà bình và an ninh trong đời ta."
Kết thúc triều vua Khít-ki-gia (2 Sb 32:32-33)
20 Những truyện còn lại của vua Khít-ki-gia, mọi chiến công của vua, cũng như việc xây hồ và kênh dẫn nước vào thành, những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21 Vua Khít-ki-gia đã an nghỉ với tổ tiên. Con vua là Mơ-na-se, lên ngôi kế vị.
lên ngôi, trị vì, trước mắt, thiên chúa, tổ phụ, thậm chí, làm lễ, ghê tởm, trục xuất, khuất mắt, tế lễ
Tổng số Album nhạc: 601
Tổng số video: 75
Tổng số nhạc MP3: 7,245
Thư viện lời nhạc: 21,805
Ý kiến bạn đọc