Chia sẻ:
1 Ông Bơ-xan-ên, ông O-ho-li-áp và mọi người lòng trí khôn ngoan mà Ðức Chúa đã ban cho được khéo tay và giỏi giang, để biết chu toàn mọi việc phục vụ nơi thánh, những người ấy sẽ làm theo tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền.
Ông Mô-sê cho ngưng quyên góp vật liệu
2 Ông Mô-sê gọi các ông Bơ-xan-ên và O-ho-li-áp lại, cùng với mọi người lòng trí khôn ngoan đã được Ðức Chúa đặt sự khôn ngoan vào lòng, mọi kẻ có nhiệt tâm bắt tay vào việc. 3 Mọi phần dâng cúng mà con cái Ít-ra-en đã mang tới trước mặt ông Mô-sê để dùng vào việc phục vụ nơi thánh, thì họ đem đi để thực hiện công trình. Nhưng sáng nào, con cái Ít-ra-en cũng cứ đem lễ vật tự nguyện tới, 4 nên tất cả những người thợ khéo tay đang thực hiện mọi công việc phục vụ nơi thánh đều ngưng công việc đang làm, để tới 5 nói với ông Mô-sê: "Dân chúng đem dâng quá số cần thiết cho công việc mà Ðức Chúa đã truyền làm." 6 Ông Mô-sê ra lệnh phải rao trong trại những lời này: "Xin mọi người, nam cũng như nữ, đừng dâng cúng gì thêm cho nơi thánh." Và dân đã ngừng, không đem gì tới nữa. 7 Vật liệu đã đủ cho mọi công việc phải làm, mà còn dư thừa nữa.
Nhà Tạm (Xh 26: 1-14)
8 Trong đám thợ đang thực hiện công trình, tất cả những người khôn ngoan tài giỏi thì dựng Nhà Tạm; ông Mô-sê cho dựng Nhà đó với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe, chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm; ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 9 Mỗi tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào cũng có kích thước như vậy. 10 Ông cho khâu năm tấm này liền với nhau và năm tấm kia liền với nhau. 11 Ông cho lấy vải đỏ tía làm dải đính vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại; ông cũng cho đính như thế vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 12 Ông cho đính năm mươi dải vào tấm thứ nhất, và cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với nhau. 13 Ông cho làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc ấy để nối các tấm vải bố lại với nhau. Như thế, Nhà Tạm thành một khối duy nhất. 14 Ông cho làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều, ở bên trên Nhà Tạm; ông cho làm mười một tấm. 15 Mỗi tấm dài mười lăm thước, rộng hai thước. Mười một tấm đều có cùng một kích thước. 16 Ông cho khâu liền năm tấm thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác. 17 Ông cho đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại, và ông cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 18 Ông cho làm năm mươi móc bằng đồng để ghép lại thành một cái lều, sao cho chỉ có một lều duy nhất. 19 Ông cho làm một tấm bạt che lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo phủ ở bên trên.
Khung lều (Xh 26: 15 -30)
20 Ông cho lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm. 21 Mỗi tấm dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi. 22 Mỗi tấm có hai mộng song song. Ông cho làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó. 23 Ông cho đặt ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam. 24 Ông cho làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới một tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới tấm ván khác ăn khớp với hai mộng của ván. 25 Hông bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc, ông cho đặt hai mươi tấm ván, 26 và cũng cho làm bốn mươi đế bạc, cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 27 Phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây, ông cho đặt sáu tấm ván. 28 Ông cho đặt hai tấm ván ở các góc Nhà Tạm, ở phía trong cùng. 29 Các tấm ván được ghép đôi lại với nhau ở phía dưới, và ghép đôi như thế cho tới đỉnh, chỗ vòng thứ nhất. Ông cho đóng hai tấm ván như thế ở hai góc. 30 Vậy có tám tấm ván với các đế bạc, tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 31 Ông cho làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở hông thứ nhất của Nhà Tạm; 32 và năm cái cho các tấm ván hông bên kia của Nhà Tạm; cũng như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây. 33 Ông cho làm thanh ngang giữa, cho nó nằm ở nửa độ cao các tấm ván, chạy suốt từ đầu này đến đầu kia. 34 Ông cho thiếp vàng các tấm ván; ông cho đúc những vòng bằng vàng để xỏ các thanh ngang; ông cũng cho thiếp vàng các thanh ngang ấy.
Bức trướng (Xh 26: 31 -37)
35 Ông cho làm bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. Ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 36 Ông cho làm bốn cột gỗ keo thiếp vàng, có những móc bằng vàng để treo bức màn trướng; và ông cho đúc bốn đế bạc để dựng những cột ấy. 37 Ông cho làm một bức màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu; 38 Ông cũng cho làm năm cột có móc, cho thiếp vàng đầu cột và thanh treo bức trướng; còn năm đế thì bằng đồng.
- Chương 37 -
Hòm Bia (Xh 25: 10-22)
1 Ông Bơ-xan-ên làm Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. 2 Ông lấy vàng ròng mà bọc cả trong lẫn ngoài; ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng. 3 Ông đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng gắn vào bốn chân: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. 4 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 5 Ông xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng.6 Ông làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. 7 Ông làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng, ông làm bằng vàng gò và đặt ở hai đầu nắp: 8 một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia. Ông làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu. 9 Các tượng thần hộ giá có hai cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện nhau, cùng cúi mặt xuống nắp.
Bàn để bánh tiến (Xh 25: 23-30)
10 Ông làm cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc rưỡi. 11 Ông lấy vàng ròng mà bọc, và ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng. 12 Chung quanh bàn, ông đóng nẹp rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng. 13 Ông đúc bốn vòng bằng vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn chân bàn. 14 Các vòng đó ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn. 15 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn. 16 Ông làm những đồ dùng để trên bàn: khay, ly, chén và bình để tế lễ; ông làm những đồ ấy bằng vàng ròng.
Trụ đèn (Xh 25: 31-40)
17 Ông làm trụ đèn bằng vàng ròng. Ông làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn. 18 Sáu nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia.19 Trên nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra đều như thế. 20 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa. 21 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra đều như thế. 22 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng. 23 Ông làm bảy cái đèn, kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Ông dùng ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn cũng như mọi đồ dùng.
Hương án. Dầu tấn phong và hương thơm. (Xh 30: 1-5)
25 Ông làm hương án bằng gỗ keo. Hương án đó dài nửa thước, rộng nửa thước - nghĩa là hình vuông - và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án. 26 Ông lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung quanh và các góc. Chung quanh hương án, ông làm một đường viền bằng vàng. 27 Ông làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn, ở hai bên, để xỏ đòn khiêng hương án. 28 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 29 Ông pha chế dầu thánh để tấn phong, cũng như hương thơm nguyên chất, là sản phẩm của thợ chế nước hoa.
- Chương 38 -
Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 27: 1-8)
1 Ông làm bàn thờ dâng lễ toàn thiêu bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi - nghĩa là hình vuông -, cao một thước rưỡi; 2 ông làm bốn cái sừng ở bốn góc, các sừng ấy làm thành một khối với bàn thờ. Ông lấy đồng mà bọc bàn thờ. 3 Ông làm các đồ dùng trên bàn thờ: nồi, xẻng, bình rảy, xiên và lư hương; các đồ dùng ấy, ông làm bằng đồng. 4 Ông làm một cái vỉ bằng đồng, hình lưới, bọc quanh chân bàn thờ, từ đất lên đến nửa chiều cao của bàn thờ. 5 Ông đúc bốn chiếc vòng đặt ở bốn góc vỉ đồng, dùng để xỏ đòn. 6 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo, và bọc đồng những đòn ấy. 7 Ông xỏ đòn vào vòng ở hai bên bàn thờ, để khiêng. Ông làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại.
Vạc đồng (Xh 30: 18)
8 Ông làm cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng, với những gương soi cho phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ.
Khuôn viên (Xh 27: 9-19)
9 Ông làm khuôn viên. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên có những tấm rèm bằng sợi gai mịn xe dài năm mươi thước. 10 Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 11 Phía bắc, có những tấm rèm năm mươi thước; hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 12 Phía biển, có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế. 13 Về hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên rộng hai mươi lăm thước; 14 một bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế; 15 bên kia, - nghĩa là hai bên cửa khuôn viên -, cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế. 16 Tất cả các rèm chung quanh khuôn viên đều bằng sợi gai mịn xe. 17 Những đế cột thì bằng đồng, những móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc, đầu cột thiếp bạc. Như vậy, mọi cột trong khuôn viên đều nối liền với nhau nhờ những thanh treo rèm bằng bạc. 18 Bức màn ở cửa khuôn viên thì bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu. Bức màn đó dài mười thước, cao - nghĩa là rộng -, hai thước rưỡi, như những tấm rèm của khuôn viên. 19 Bốn cột treo rèm và bốn đế thì bằng đồng, móc bằng bạc, đầu cột thiếp bạc, thanh treo rèm cũng bằng bạc. 20 Mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên đều bằng đồng.
Bảng kết toán
21 Ðây là bảng kết toán về Nhà Tạm, Nhà Tạm Chứng Ước. Ông Mô-sê đã ra lệnh cho các thầy Lê-vi, dưới sự hướng dẫn của ông I-tha-ma, con của tư tế A-ha-ron, phải làm bảng này.
22 Chính ông Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa, đã thi hành mọi điều Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê. 23 Người phụ tá của ông là O-ho-li-áp, con của ông A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan; ông là thợ chạm và là nghệ nhân, là thợ thêu chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn.
24 Tổng số vàng dân đã dâng cúng để dùng vào công trình, công trình dựng nơi thánh, là tám trăm bảy mươi ký và hai trăm hai mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 25 Số bạc những người trong cộng đồng thuộc diện kiểm tra dân số đã dâng là ba ngàn ký và năm trăm ba mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 26 Mỗi đầu người là hai chỉ bạc, tức là nửa se-ken, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên, tức là sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi người, đều phải đóng góp như vậy. 27 Ba ngàn ký bạc để đúc các đế của nơi thánh và của bức trướng: một trăm đế mất ba ngàn ký, mỗi đế ba mươi ký. 28 Ông dùng năm trăm ba mươi lượng để làm móc cột, thiếp đầu cột và nối các cột lại nhờ những thanh treo màn. 29 Số đồng người ta dâng cúng là hai ngàn một trăm hai mươi bốn ký. 30 Ông đem dùng làm các đế đặt ở cửa Lều Hội Ngộ, bàn thờ đồng và vỉ đồng, mọi đồ phụ tùng của bàn thờ, 31 các đế chung quanh khuôn viên, các đế ở cửa khuôn viên, mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên.
- Chương 39 -
Y phục của thượng tế
1 Người ta lấy chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm làm phẩm phục để dùng khi hành lễ trong nơi thánh. Người ta làm lễ phục cho ông A-ha-ron, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Áo ê-phốt (Xh 2 8: 6-14)
2 Người ta làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 3 Người ta cán vàng thành từng lá và kéo thành chỉ để xen vào chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn, và làm nên một công trình rất mỹ thuật. 4 Người ta làm cầu vai cho áo ê-phốt và hai thân áo ê-phốt được khâu liền vào hai đầu cầu vai. 5 Băng chéo đeo trên áo ê-phốt để giữ áo thì đính liền vào đó; băng chéo đó làm cùng một kiểu với áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 6 Người ta giũa mã não, nhận vào những ổ bằng vàng, khắc tên con cái Ít-ra-en vào các viên ngọc đó theo kiểu thợ chạm khắc dấu ấn. 7 Người ta đặt các viên ngọc đó trên cầu vai của áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Túi đeo trước ngực (Xh 28: 15-30)
8 Người ta may túi đeo trước ngực rất mỹ thuật theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 9 Túi đó hình vuông may kép, dài một gang, rộng một gang. 10 Người ta nhận vào đó bốn hàng ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; 11 ở hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; 12 Ở hàng thứ ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc; 13 ở hàng thứ tư có nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó được nhận vào những ổ bằng vàng. 14 Các viên ngọc mang tên con cái Ít-ra-en: mười hai viên ngọc mang mười hai tên của họ khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên ngọc mang tên của một trong mười hai chi tộc. 15 Người ta làm cho túi đeo trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc. 16Người ta làm hai ổ bằng vàng và hai vòng bằng vàng, và đính hai vòng đó vào hai góc túi. 17 Người ta xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng đó vào hai vòng đặt ở góc túi. 18 Người ta đặt hai đầu dây chuyền khoen lật vào hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải. 19 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo ê-phốt. 20 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai của áo ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo ê-phốt. 21 Người ta lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi đeo trước ngực vào các vòng của áo ê-phốt, để túi nằm trên băng chéo của áo ê-phốt: như thế, túi không xê dịch được trên áo ê-phốt, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Áo khoác (Xh 28: 31 -35)
22 Người ta làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía: đó là công trình của thợ dệt. 23 Cổ áo khoét ở giữa giống như cổ áo giáp: đường viền chung quanh cổ áo không sao rách được. 24 Người ta làm ở gấu dưới của áo khoác những quả lựu bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 25 Người ta làm những lục lạc bằng vàng ròng, rồi xếp những lục lạc đó xen kẽ với những quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, xen kẽ với những quả lựu: 26 một lục lạc rồi một quả lựu, một lục lạc rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, để cử hành nghi lễ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Y phục tư tế (Xh 28: 40-43)
27 Người ta làm những áo dài bằng sợi gai mịn cho ông A-ha-ron và các con ông: đó là công trình của thợ dệt; 28 người ta cũng làm mũ tế bằng sợi gai mịn, khăn chít bằng sợi gai mịn để trang sức, quần bằng sợi gai, sợi gai mịn xe, 29 đai lưng bằng sợi gai mịn xe, bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm: đó là công trình của thợ thêu, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
30 Người ta làm huy hiệu bằng vàng ròng, là dấu thánh hiến, và ghi trên đó những chữ sau đây theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho Ðức Chúa." 31 Người ta đính nó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào phía trên mũ tế, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
32 Như thế, mọi công việc dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ đều hoàn thành. Con cái Ít-ra-en làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
33 Họ đem lại cho ông Mô-sê Nhà Tạm, gồm: Lều và mọi đồ phụ tùng, móc, ván, thanh ngang, cột và đế; 34 bạt bằng da cừu nhuộm đỏ và bạt bằng da cá heo, bức trướng dùng làm màn che; 35 Hòm Bia Chứng Ước, đòn khiêng và nắp xá tội; 36 bàn và mọi đồ dùng, bánh tiến; 37 trụ đèn bằng vàng ròng và các thứ đèn đặt trên đó, mọi đồ dùng và dầu thắp đèn; 38 bàn thờ bằng vàng, dầu tấn phong, hương thơm, màn che cửa Lều; 39 bàn thờ bằng đồng và vỉ bằng đồng, đòn khiêng và mọi đồ dùng, vạc và đế; 40 màn của khuôn viên, cột, đế và tấm màn che cửa khuôn viên, dây thừng và cọc, cũng như mọi đồ dùng để phục vụ Nhà Tạm, cần cho Lều Hội Ngộ; 41 phẩm phục để hành lễ trong nơi thánh, lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế. 42 Con cái Ít-ra-en thực hiện tất cả công trình đó hoàn toàn đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
43 Ông Mô-sê nhìn xem mọi công việc đó: họ thực hiện đúng y như Ðức Chúa đã truyền. Ông Mô-sê chúc phúc cho họ.
- Chương 40 -
Dựng và thánh hiến Nhà Tạm
1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Vào ngày mồng một tháng giêng, ngươi sẽ dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ. 3 Ngươi sẽ đặt vào đó Hòm Bia Chứng Ước và lấy bức trướng mà che Hòm Bia ấy. 4Ngươi sẽ đem bàn tới và bày trên đó những gì cần phải bày ra. Ngươi sẽ đem trụ đèn tới và đặt đèn lên đó. 5 Ngươi sẽ đặt hương án bằng vàng trước Hòm Bia Chứng Ước, và treo màn che cửa Nhà Tạm. 6Ngươi sẽ đặt bàn thờ dâng lễ toàn thiêu trước cửa Nhà Tạm, trước cửa Lều Hội Ngộ. 7 Ngươi sẽ đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, và đổ nước vào đó. 8 Ngươi sẽ làm khuôn viên chung quanh và treo màn che cửa khuôn viên. 9 Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm và tất cả những gì trong đó; ngươi sẽ thánh hiến Nhà Tạm và mọi đồ vật trong đó; như thế, Nhà Tạm sẽ là vật thánh. 10 Ngươi sẽ xức dầu bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ dùng; ngươi sẽ thánh hiến bàn thờ, và bàn thờ sẽ là vật rất thánh. 11 Ngươi sẽ xức dầu cái vạc và đế, ngươi sẽ thánh hiến cái vạc đó. 12 Ngươi sẽ dẫn A-ha-ron và các con ông đến gần cửa Lều Hội Ngộ và lấy nước tẩy rửa họ. 13 Ngươi sẽ lấy phẩm phục mặc cho A-ha-ron, xức dầu thánh hiến để ông ấy thi hành chức tư tế phục vụ Ta. 14 Ngươi sẽ dẫn các con ông lại gần và cho họ mặc áo dài. 15 Ngươi đã xức dầu họ như đã xức dầu cha họ, để họ thi hành chức tư tế phục vụ Ta. Ngươi sẽ làm như thế, để nhờ việc xức dầu, họ trở nên tư tế vĩnh viễn, đời nọ đến đời kia.
Thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa
16 Ông Mô-sê làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông. 17 Ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai, Nhà Tạm được dựng lên. 18 Ông Mô-sê cho dựng Nhà Tạm. Ông cho đặt đế, ghép ván, đặt thanh ngang và dựng cột. 19 Ông cho căng lều trên Nhà Tạm, lấy bạt che phía trên lều, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 20 Ông lấy Chứng Ước đặt vào Hòm Bia, xỏ đòn vào Hòm Bia, đặt nắp xá tội lên trên đó. 21 Ông rước Hòm Bia vào trong Nhà Tạm và treo bức trướng để che khuất Hòm Bia Chứng Ước, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 22 Ông cho đặt chiếc bàn trong Lều Hội Ngộ, bên cạnh Nhà Tạm, phía bắc, bên ngoài bức trướng, 23 rồi cho bày một hàng bánh trên đó, trước nhan Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 24 Ông cho đặt trụ đèn trong Lều Hội Ngộ, đối diện với bàn, bên cạnh Nhà tạm, phía nam, 25 rồi cho đặt đèn lên đó, trước nhan Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 26 Ông cho đặt bàn thờ bằng vàng trong Lều Hội Ngộ, phía trước bức trướng, 27 rồi cho đốt hương thơm trên đó, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 28 Ông cho treo màn che cửa Nhà Tạm. 29 Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, ông cho đặt ở cửa Nhà Tạm, ở cửa lều Hội Ngộ, rồi ông dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm trên đó, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 30 Ông cho đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó, để dùng vào việc tẩy rửa. 31 Ông A-ha-ron và các con ông lấy nước ấy mà rửa tay chân. 32 Mỗi khi họ vào Lều Hội Ngộ và tới gần bàn thờ, thì họ tẩy rửa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 33 Ông cho làm khuôn viên chung quanh Nhà Tạm và bàn thờ, rồi cho treo màn che cửa khuôn viên. Như thế, ông Mô-sê đã hoàn thành công việc.
Ðức Chúa chiếm hữu Nhà Tạm (Ðn 9:15-16)
34 Ðám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Ðức Chúa đầy tràn Nhà Tạm. 35 Ông Mô-sê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó, và vinh quang Ðức Chúa đầy tràn Nhà Tạm.
Mây dẫn đường cho dân Ít-ra-en (Ðn 9:17 -23)
36 Ở mỗi chặng đường của họ, khi nào đám mây bay lên khỏi Nhà Tạm, thì con cái Ít-ra-en nhổ trại. 37 Nếu mây không bay lên, thì họ không nhổ trại cho đến ngày mây lại bay lên. 38 Quả vậy, đám mây của Ðức Chúa đậu trên Nhà Tạm ban ngày, còn ban đêm thì có lửa trong mây, trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en, ở mỗi chặng đường họ đi.
trí khôn, khôn ngoan, nhiệt tâm, bắt tay, phục vụ, thực hiện, lễ vật, tự nguyện, tất cả, người thợ, khéo tay, dân chúng, cần thiết, ra lệnh, vật liệu
Tổng số Album nhạc: 601
Tổng số video: 75
Tổng số nhạc MP3: 7,245
Thư viện lời nhạc: 21,805
Ý kiến bạn đọc