Sách các vua (Cuốn thứ nhất) - Phần 2

Sách các vua (Cuốn thứ nhất) - Phần 2
Năm thứ bốn trăm tám mươi từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, năm thứ tư triều đại vua Sa-lô-môn cai trị Ít-ra-en tháng Diu tức là tháng thứ hai, vua xây Ðền Thờ kính Ðức Chúa. Ðền vua Sa-lô-môn xây kính Ðức Chúa dài ba mươi thước, rộng mười thước và cao mười lăm thước. Tiền đình ở trước gian Cung Thánh của Ðền Thờ dài mười thước nằm theo chiều rộng của Ðền Thờ, rộng năm thước nằm theo chiều dài của Ðền Thờ. Vua làm Ðền Thờ có cửa sổ với khung và chấn song. Vua xây dựa vào tường Ðền Thờ một cái chái bọc các tường chung quanh gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh, và làm các tầng chái chung quanh.
- Chương 06 -

 

Xây cất Ðền Thờ

1 Năm thứ bốn trăm tám mươi từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, năm thứ tư triều đại vua Sa-lô-môn cai trị Ít-ra-en tháng Diu tức là tháng thứ hai, vua xây Ðền Thờ kính Ðức Chúa. 2 Ðền vua Sa-lô-môn xây kính Ðức Chúa dài ba mươi thước, rộng mười thước và cao mười lăm thước. 3 Tiền đình ở trước gian Cung Thánh của Ðền Thờ dài mười thước nằm theo chiều rộng của Ðền Thờ, rộng năm thước nằm theo chiều dài của Ðền Thờ. 4 Vua làm Ðền Thờ có cửa sổ với khung và chấn song. 5 Vua xây dựa vào tường Ðền Thờ một cái chái bọc các tường chung quanh gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh, và làm các tầng chái chung quanh. 6 Tầng dưới rộng hai thước rưỡi, tầng giữa rộng ba thước, và tầng thứ ba rộng ba thước rưỡi, vì chung quanh Ðền Thờ, phía ngoài, vua đã xây thụt vào để khỏi đóng đà vào tường Ðền Thờ. 7 Khi xây Ðền Thờ, người ta dùng đá đẽo toàn khối, đang khi xây, trong Ðền Thờ không hề nghe thấy tiếng búa tiếng rìu, hay bất cứ dụng cụ nào bằng sắt. 8 Cửa vào tầng giữa nằm bên hông phải Ðền Thờ, và người ta dùng thang xoáy đi lên tầng giữa; rồi từ tầng giữa lên tầng ba. 9 Khi xây Ðền Thờ xong, vua dùng gỗ bá hương chạm trổ mỹ thuật mà đóng trần Ðền Thờ. 10 Rồi vua xây hành lang chung quanh Ðền Thờ, cao hai thước rưỡi, và được nối liền với Ðền Thờ bằng những cái đà gỗ bá hương. 11 Có lời Ðức Chúa phán bảo vua Sa-lô-môn rằng: 12 "Vì Ðền Thờ ngươi đang xây đây, nếu ngươi tiến bước theo các giới răn, thực hành các huấn lệnh của Ta và tuân giữ các mệnh lệnh Ta truyền, mà bước theo các điều ấy, thì Ta sẽ thực hiện cho ngươi các lời Ta đã phán với Ða-vít, thân phụ ngươi. 13 Ta sẽ lưu ngự giữa con cái Ít-ra-en; Ta sẽ không bỏ Ít-ra-en, dân Ta." 14 Vua Sa-lô-môn đã hoàn thành việc xây cất Ðền Thờ.

 

Trần thiết bên trong - Nơi Cực Thánh (2 Sb 3:8-9)

15 Vua dùng ván bá hương ghép mặt trong của Ðền Thờ, từ nền cho tới đà của trần nhà; như thế toàn bộ mặt trong của Ðền Thờ được ghép gỗ; nền nhà thì vua lát ván gỗ trắc. 16 Vua dùng ván bá hương lát mười thước phần sau của Ðền Thờ, từ nền cho tới trần nhà; và dành phần đó làm Ðơ-via, tức là Nơi Cực Thánh. 17 Cung Thánh, tức là Hê-can, ở trước Ðơ-via, được hai mươi thước. 18 Gỗ bá hương ghép bên trong Cung Thánh được trạm trổ hình trái mướp đắng và nhành hoa; toàn là gỗ bá hương, chứ không thấy đá. 19 Vua lập một Nơi Cực Thánh ở giữa Ðền Thờ, phía trong, để đặt Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa. 20 Nơi Cực Thánh dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước, và vua dát vàng ròng; vua cũng làm bàn thờ bằng gỗ bá hương. 21 Vua Sa-lô-môn dát vàng ròng phía trong Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh vua cũng dát vàng. 22 Tất cả Ðền Thờ vua đều dát vàng, không trừ một chỗ nào; bàn thờ Nơi Cực Thánh vua cũng dát toàn vàng.

 

Các Kê-ru-bim (2 Sb 3:10 -14)

23 Trong Nơi Cực Thánh vua làm hai Kê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, cao năm thước. 24 Một cánh của một Kê-ru-bim dài hai thước rưỡi, cánh kia cũng hai thước rưỡi; thành ra từ đầu cánh này tới đầu cánh kia là năm thước. 25 Kê-ru-bim thứ hai cũng đo được năm thước; hai Kê-ru-bim có một kích thước và hình thể như nhau. 26 Chiều cao của một Kê-ru-bim là năm thước; Kê-ru-bim thứ hai cũng thế. 27 Vua đặt các Kê-ru-bim ở giữa Nhà, phía bên trong; cánh xoè ra: một cánh của Kê-ru-bim thứ nhất đụng tường bên này, và một cánh của Kê-ru-bim thứ hai đụng tường bên kia; hai cánh khác giao nhau ở giữa Nhà, cánh nọ chạm cánh kia. 28 Vua cũng dát vàng các Kê-ru-bim. 29 Trên khắp các tường chung quanh Nhà, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, cả trong lẫn ngoài. 30 Sàn Nhà, vua cũng dát vàng, cả phía trong lẫn phía ngoài.

 

Cửa - Sân

31 Ở lối vào Nơi Cực Thánh, vua làm cánh cửa bằng gỗ ô-liu quý, khung cửa có năm cạnh. 32 Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, rồi vua dát vàng; vua trải mỏng vàng trên các Kê-ru-bim và các cây chà là. 33 Cửa vào Cung Thánh, vua cũng làm như thế; trụ khung cửa bằng gỗ ô-liu, nhưng có bốn cạnh, 34 hai cánh cửa bằng gỗ trắc: một cánh có hai tấm xoay được, và cánh kia cũng có hai tấm xoay được. 35 Vua chạm trổ hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, và dát vàng hoàn toàn khít với hình nổi.

36 Vua xây sân trong: ba hàng đá, đục đẽo mỹ thuật và một hàng thanh gỗ trắc.

 

Thời gian xây Ðền Thờ

37 Năm thứ tư, tháng Diu, người ta đặt nền móng Ðền Thờ Ðức Chúa; 38 năm thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng thứ tám, công trình xây cất Ðền Thờ, cả quy mô lẫn chi tiết, đều được hoàn thành. Vua đã xây cất Ðền Thờ trong bảy năm.

 

- Chương 07 -

 

Cung điện vua Sa-lô-môn

1 Vua Sa-lô-môn xây dựng cung điện của mình mất mười ba năm mới xong. 2 Vua đã xây Cung Rừng Li-băng, dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao mười lăm thước, với bốn hàng cột bằng gỗ bá hương; trên các cột có ghép các thanh gỗ bá hương. 3 Trần nhà bằng gỗ bá hương được đặt trên bốn mươi lăm chiếc đà, mỗi khoang mười lăm chiếc, có cột chống đỡ. 4 Ba hàng cửa sổ, hàng này đối diện với hàng kia, thành bộ ba. 5 Tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, bên này đối diện với bên kia, thành bộ ba. 6 Vua cũng làm hành lang nhiều cột, dài hai mươi lăm thước, rộng mười lăm thước, và phía mặt tiền hành lang có một mái hiên với tường hoa. 7 Vua còn làm hành lang đặt ngai vàng, là nơi vua xét xử, và cũng là hành lang công lý, được ghép gỗ bá hương từ sàn tới mái nhà. 8 Và cung điện nơi vua cư ngụ cũng như sân bên trong hành lang, đều cùng một kiểu như nhau. Còn phòng vua làm cho ái nữ Pha-ra-ô mà vua đã cưới làm vợ, thì cũng giống như các hành lang ấy.

9 Tất cả đều bằng đá phiến, đẽo gọt theo kích thước và xẻ bằng cưa, bên trong cũng như bên ngoài, từ nền cho tới kèo nhà. 10 Nền nhà lát đá hảo hạng, đá lớn, đá rộng năm thước và đá rộng bốn thước.11 Phần trên thì bằng đá quý, đẽo gọt theo kích thước và bằng gỗ bá hương. 12 Chung quanh sân lớn có ba hàng đá đẽo và một hàng ván bá hương; sân trong Ðền Thờ Ðức Chúa và tiền đình cung điện cũng vậy.

 

Ông thợ đồng Khi-ram

13 Vua Sa-lô-môn sai người đi Tia mời ông Khi-ram đến; 14 ông là con một bà goá thuộc chi tộc Náp-ta-li; thân phụ ông là người Tia và làm thợ gò đồng. Ông rất khôn ngoan, thành thạo và tài khéo trong mọi công việc thuộc nghề đồng. Vậy ông vào chầu vua Sa-lô-môn và làm mọi công việc của vua.

Các trụ đồng (2 Sb 3:15 -17)

15 Ông đúc hai trụ đồng; trụ thứ nhất cao chín thước; lấy dây mà đo chu vi trụ thì được sáu thước; trụ thứ hai cũng thế. 16 Ông đúc hai đầu trụ bằng đồng, để đặt trên các trụ, chiều cao của đầu trụ thứ nhất là hai thước rưỡi, chiều cao của đầu trụ thứ hai cũng hai thước rưỡi. 17 Ông làm những màng lưới mắt cáo, kiểu lưới bằng thừng xoắn lại, kết thành những dây hoa đeo lên đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, bảy dây hoa cho đầu trụ thứ nhất và bảy dây hoa cho đầu trụ thứ hai. 18 Ông làm hai hàng trái thạch lựu chung quanh lưới mắt cáo bọc đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, và đầu trụ thứ hai ông cũng làm như thế. 19 Còn các đầu trụ trên đỉnh trụ thì ông làm tất cả theo hình bông huệ, dài hai thước. 20 Phần thượng các đầu trụ trên hai trụ, sát với bầu trụ, ông cũng làm một hàng hai trăm trái thạch lựu chung quanh cả hai đầu trụ. 21Ông dựng cột tiền đình của Cung Thánh, ông dựng cột bên phải và đặt tên là Gia-khin, rồi dựng cột bên trái và gọi là Bô-át. 22 Trên đầu các cột ông làm hình bông huệ. Công việc làm cột thế là hoàn tất.

 

Bể nước bằng đồng (2 Sb 4:2-5)

23 Ông đúc một bể nước rộng năm thước từ mép nọ tới mép kia, hình tròn, cao hai thước rưỡi; lấy dây mà đo chu vi của bể thì được mười lăm thước. 24 Bên dưới mép bể có những hình trái mướp đắng chạy vòng quanh bể, cứ nửa thước là mười trái, khắp chung quanh bể; hai hàng trái mướp đắng cùng đúc một lượt với bể. 25 Bể được đặt trên mười hai con bò: ba con quay mặt về hướng Bắc, ba con quay mặt về hướng Tây, ba con quay mặt về hướng Nam, và ba con quay mặt về hướng Ðông; bể đặt bên trên chúng, và các phần mông của chúng đều quay vào trong. 26 Chiều dày của bể là một tấc, và mép nó giống như mép một cái chén hình hoa huệ. Bể chứa được bốn ngàn thùng.

 

Giàn lăn và bồn nước bằng đồng

27 Ông làm mười giàn bằng đồng; mỗi cái dài hai thước, rộng hai thước và cao một thước rưỡi. 28 Các giàn ấy được làm như thế này: giàn có những đòn ngang ghép thành khung. 29 Trên những đòn ngang ghép thành khung ấy có khắc hình sư tử, bò và Kê-ru-bim; trên các khung, phía trên phía dưới các con sư tử và bò có những nhành hoa rủ xuống như đeo. 30 Mỗi giàn có bốn bánh xe bằng đồng, với những cái trục; bốn chân của nó có bờ vai đỡ bồn nước; các bờ vai này đều được đúc và bên kia mỗi bờ vai là những nhành hoa. 31 Bên trong vòng là cái miệng giàn cao nửa thước; miệng nó tròn, đo được bảy tấc rưỡi. Trên miệng nó cũng có những hình nổi. Các đòn ngang thì lại vuông chứ không tròn. 32 Bên dưới các đòn ngang có bốn bánh xe; các chốt bánh xe được gắn với giàn; chiều cao của mỗi bánh xe là bảy tấc rưỡi. 33 Người ta làm các bánh xe này cũng như bánh xe thường; chốt, vành, thang bánh xe và đùm bánh xe, tất cả đều đúc. 34 Có bốn bờ vai ở bốn góc của mỗi giàn; các bờ vai này được gắn thành một với giàn. 35 Trên đỉnh giàn có một vòng tròn cao hai tấc rưỡi; trên đỉnh giàn những cái mộng và các đòn ngang làm thành một khối với giàn. 36 Trên mặt các mộng, ông trạm trổ hình các Kê-ru-bim, sư tử và những trái chà là; giữa khoảng cách mỗi vật có những nhành hoa chạy chung quanh. 37 Ông làm mười giàn đều như thế: cùng đúc một kiểu, một kích thước, một hình thể như nhau.

38 Ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được tám mươi thùng, và mỗi bồn cao hai thước; mỗi bồn được đặt trên một trong mười giàn. 39 Ông đặt năm giàn bên hông phải Ðền Thờ và năm giàn bên hông trái; còn bể thì ông đặt bên phải Ðền Thờ, hướng đông nam.

 

Vật dụng trong Ðền Thờ - Tóm lược (2 Sb 4:11 -5:1)

40 Ông Khi-ram làm những chiếc vạc, những cái xẻng và bình rảy. Ông Khi-ram hoàn thành tất cả công trình mà ông đã thực hiện cho vua Sa-lô-môn trong Ðền Thờ Ðức Chúa:

41 Hai trụ, các bầu của các đầu trụ trên hai đỉnh trụ, hai màng lưới bọc hai bầu của các đầu trụ trên đỉnh trụ. 42 Bốn trăm trái thạch lựu cho hai màng lưới, mỗi màng lưới hai hàng thạch lựu, để bọc hai bầu của các đầu trụ trên đỉnh trụ.

43 Mười cái giàn và mười cái bồn đặt trên giàn.

44 Một cái bể và mười hai con bò đỡ phía dưới.

45 Những cái vạc, xẻng và bình rảy.

46 Vua đúc các vật ấy tại đồng bằng Gio-đan, trên mặt đất sét, giữa Xúc-cốt và Xác-than. 47 Vua Sa-lô-môn xếp đặt tất cả các vật ấy, chúng nhiều vô kể, nên không tính được số lượng đồng.

48 Vua Sa-lô-môn đã làm tất cả các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa: bàn thờ bằng vàng, bàn đặt bánh tiến cũng bằng vàng. 49 Các chân đèn: năm chiếc bên phải và năm chiếc bên trái, trước Nơi Cực Thánh, tất cả bằng vàng ròng; hoa, đèn, kéo cắt bấc đều bằng vàng; 50 chén, dao, bình rảy, bình hương, khay đựng tro bằng vàng ròng; các chốt cánh cửa Ðền Thờ bên trong, tức là Nơi Cực Thánh, và các chốt cánh cửa Ðền Thờ, tức là Cung Thánh, cũng bằng vàng.

51 Thế là hoàn thành toàn bộ công trình mà vua Sa-lô-môn đã thực hiện cho Ðền Thờ Ðức Chúa. Vua Sa-lô-môn đưa vào đó các vật thánh mà vua Ða-vít, thân phụ ông đã dâng: bạc, vàng, các vật dụng; vua đặt các vật ấy trong kho Ðền Thờ Ðức Chúa.

 

- Chương 08 -

 

Di chuyển Hòm Bia Giao Ước (2 Sb 5:2-10)

1 Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập bên mình, tại Giê-ru-sa-lem, các kỳ mục Ít-ra-en, gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en, để đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên, từ Thành vua Ða-vít tức là Xi-on. 2 Mọi người Ít-ra-en tập hợp lại bên vua Sa-lô-môn trong tháng Ê-ta-nim tức là tháng thứ bảy để mừng Lễ. 3 Tất cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới; các tư tế thì khiêng Hòm Bia, 4 và đưa Hòm Bia của Ðức Chúa cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế và các thầy Lê-vi đưa những thứ ấy lên. 5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng Ít-ra-en tụ họp lại bên cạnh vua trước Hòm Bia, sát tế chiên bò nhiều vô kể, không sao đếm nổi. 6 Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa vào nơi đã dành sẵn trong cung Ðơ-via của Ðền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Kê-ru-bim. 7 Quả vậy, các Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm Bia, che phía trên Hòm Bia và các đòn khiêng. 8 Các đòn này dài đến nỗi từ Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh, có thể nhìn thấy các đầu đòn, nhưng từ bên ngoài thì không thấy được. Các đòn này vẫn còn đó cho tới ngày nay. 9 Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Mô-sê đã đặt vào đó, trên núi Khô-rếp, khi Ðức Chúa lập Giao Ước với con cái Ít-ra-en vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.

 

Thiên Chúa ngự xuống Ðền Thờ (2 Sb 5:11-6:2)

10 Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Ðền Thờ Ðức Chúa. 11 Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây: quả thật, vinh quang Ðức Chúa đã tràn ngập Ðền Thờ Ðức Chúa.

12 Bấy giờ vua Sa-lô-môn nói:

"Ðức Chúa đã phán: Người sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Vâng,

13 Con đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang. Một nơi để Ngài ngự muôn đời."

 

Vua Sa-lô-môn hiệu triệu dân chúng (2Sb 6 :3-11)

14 Rồi vua quay mặt lại chúc lành cho toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, trong khi cả cộng đồng Ít-ra-en đều đứng. 15 Vua nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ðấng đã ra tay hoàn thành điều chính miệng Người đã phán với Ða-vít, thân phụ ta, rằng: 16 "Từ ngày Ta đưa Ít-ra-en dân Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en để xây một ngôi nhà kính Danh Ta ở đó, nhưng Ta đã chọn Ða-vít đứng đầu Ít-ra-en dân Ta. 17 Vậy Ða-vít thân phụ ta đã có ý xây một ngôi nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 18 Nhưng Ðức Chúa lại phán với Ða-vít thân phụ ta: "Ngươi định tâm xây một ngôi nhà để kính Danh Ta; ngươi định tâm như thế là tốt. 19 Có điều là ngươi sẽ không xây nhà ấy, mà con của ngươi, kẻ từ lòng ngươi sinh ra, chính nó sẽ xây nhà để kính Danh Ta. 20 Ðức Chúa đã thực hiện lời Người phán; ta đã lên kế vị Ða-vít thân phụ ta và ngồi trên ngai Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã phán; ta đã xây nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en;21 tại đó, ta đã chỉ định một nơi để đặt Hòm Bia có Giao Ước của Ðức Chúa, giao ước Người đã thiết lập với cha ông chúng ta, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập.

 

Vua Sa-lô-môn cầu nguyện (2 Sb 6:12 -20)

22 Vua Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Ðức Chúa, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, giơ hai tay lên trời và 23 thưa: "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, chốn trời cao cũng như nơi đất thấp, chẳng có thần nào giống như Ngài. Ngài vẫn giữ giao ước và tình thương đối với các tôi tớ Ngài, khi họ hết lòng bước đi trước nhan Ngài. 24 Ngài đã giữ lời Ngài đã phán tôi tớ Ngài là Ða-vít thân phụ con, vì điều chính miệng Ngài phán, thì tay Ngài đã thực hiện, như thấy hôm nay. 25 Giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin Ngài cũng giữ điều Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Ða-vít thân phụ con là: "Bao lâu con cái ngươi giữ đúng đường lối của chúng, là bước đi trước nhan Ta như ngươi đã bước đi trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai báu Ít-ra-en. 26 Vậy, lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin thực hiện lời Ngài đã phán với Ða-vít thân phụ con. 27 Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây! 28 Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con! Xin đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi tớ Ngài dâng trước tôn nhan hôm nay. 29 Xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán "Danh Ta sẽ ở đấy"; xin Ngài lắng nghe lời nguyện tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây."

 

Cầu cho dân (2 Sb 6:21 -31)

30 Xin nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ít-ra-en dân Ngài dâng lên ở nơi đây. Từ trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ.

31 Nếu có ai xúc phạm đến đồng loại, và người ta lấy lời thề độc mà buộc nó phải đến thề trước Bàn Thờ của Ngài trong Ðền Thờ này, 32 thì từ trời xin Ngài lắng nghe và hành động; xin phân xử cho các tôi tớ Ngài, là lên án kẻ có lỗi mà bắt nó phải cúi đầu chịu tội; còn người vô tội thì Ngài minh oan cho họ được vô can.

33 Nếu Ít-ra-en dân Ngài bị quân thù đánh bại vì đã xúc phạm đến Ngài, và nếu họ trở lại với Ngài mà tuyên xưng Danh Ngài và cầu xin, khẩn nài trong Ðền Thờ này, 34 thì từ trời xin Ngài lắng nghe, thứ tha tội lỗi Ít-ra-en dân Ngài và đưa họ về đất Ngài đã ban cho cha ông họ.

35 Khi trời đóng lại và không có mưa vì họ đã xúc phạm đến Ngài, nếu họ cầu nguyện nơi đây, tuyên xưng Danh Ngài, bỏ tội lỗi mà trở về, vì Ngài đã làm cho họ khổ cực, 36 thì từ trời xin Ngài lắng nghe và tha thứ tội lỗi cho các tôi tớ Ngài và cho Ít-ra-en dân Ngài, để họ thấy con đường lành phải theo, và xin cho mưa nhuần tưới xuống trên phần đất Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.

37 Khi trong xứ có nạn đói kém, dịch hạch, khi mùa màng hư hoại, khi có nạn châu chấu cào cào, khi quân thù vây hãm một thành nào của họ, trong bất cứ tai hoạ hay bệnh tật nào; 38 mọi lời cầu nguyện, khấn xin của bất cứ ai hoặc toàn thể Ít-ra-en dân Ngài dâng lên, vì thấy lương tâm cắn rứt mà giơ tay hướng về Ðền Thờ này, 39 thì từ trời là nơi Ngài ngự, xin Ngài lắng nghe và tha thứ; xin Ngài hành động và ban ơn cho mỗi người tuỳ theo lối sống của họ, bởi vì Ngài biết lòng họ, quả thật chỉ mình Ngài biết rõ lòng con cái loài người, 40 ngõ hầu họ kính sợ Ngài, bao lâu họ còn sống trên phần đất mà Ngài đã ban cho cha ông chúng con.

 

Phụ trương (2 Sb 6:32 -39)

41 Ngay cả với người ngoại kiều, không thuộc về Ít-ra-en dân Ngài, nếu nó từ phương xa tới vì Danh Ngài, - 42 vì người ta sẽ nghe biết Danh Ngài cao cả, bàn tay Ngài dũng mãnh và cánh tay Ngài giương cao -, nếu nó đến cầu nguyện trong Ðền Thờ này, 43 thì từ trời nơi Ngài ngự xin Ngài lắng nghe và thực hiện mọi điều kẻ ngoại kiều ấy kêu xin, để cho mọi dân trên mặt đất nhận biết Danh Ngài và kính sợ Ngài, như Ít-ra-en dân Ngài và để họ biết là Danh Ngài được kêu cầu nơi Ðền Thờ con đã xây lên đây.

44 Nếu dân Ngài xuất trận chống quân thù theo đường lối Ngài sai họ đi, và nếu họ cầu nguyện với Ðức Chúa, hướng về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây kính Danh Ngài, 45 thì từ trời xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ.

46 Nếu họ xúc phạm đến Ngài - thật thì không người nào mà không phạm tội -, khiến Ngài phải thịnh nộ với họ, mà trao họ cho địch, và những kẻ chiến thắng đày họ sang một xứ thù địch, xa hay gần; 47nhưng rồi trên đất lưu đày, họ hồi tâm trở lại và van xin Ngài trên đất lưu đày rằng: "Chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác, chúng con thật đáng tội! 48 Nếu trên đất địch, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết sức trở về với Ngài, và cầu nguyện với Ngài; hướng về xứ sở Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây kính Danh Ngài, 49 thì từ trời, nơi Ngài ngự, xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ, 50 và tha cho dân tội xúc phạm đến Ngài cũng như mọi tội phản bội đối với Ngài; xin Ngài tỏ lòng thương xót họ trước mặt quân chiến thắng, khiến chúng cũng phải thương xót họ, 51 vì họ là dân, là gia nghiệp của Ngài, gia nghiệp Ngài đã đưa ra từ Ai-cập, từ giữa lò nung sắt.

 

Kết thúc lời nguyện - Chúc lành cho dân

52 Vậy, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, xin ghé mắt nhìn đến tôi tớ Ngài đang nài van, đến Ít-ra-en dân Ngài đang cầu nguyện, mà lắng nghe mọi điều họ kêu xin, 53 vì, từ giữa mọi dân tộc trên mặt đất, Ngài đã tách họ ra làm sản nghiệp riêng, như Ngài đã dùng ông Mô-sê tôi tớ Ngài mà phán, khi đưa cha ông chúng con ra khỏi Ai-cập."

54 Sau khi dâng tất cả những lời cầu nguyện và nài van ấy lên Ðức Chúa, thì vua Sa-lô-môn phủ phục rồi đứng lên trước bàn thờ Ðức Chúa, giơ hai tay lên trời, 55 quay xuống, cất lớn tiếng chúc lành cho toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en: 56 "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã ban cho Ít-ra-en dân Người được nghỉ ngơi, đúng y như Người đã phán, không sai một lời nào trong tất cả những lời tốt lành Người đã dùng ông Mô-sê, tôi tớ Người, mà phán. 57 Xin Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, ở cùng chúng ta như Người đã ở với tổ tiên chúng ta; xin Người đừng để mặc, cũng đừng bỏ rơi chúng ta, 58 nhưng xin hướng lòng chúng ta về với Người, để chúng ta bước đi trên mọi nẻo đường của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, giới răn và luật pháp Người đã truyền cho tổ tiên chúng ta. 59 Ước chi những lời ta khẩn khoản dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta ở trước Tôn Nhan Người đêm ngày, để Người bênh vực quyền lợi tôi tớ Người và quyền lợi Ít-ra-en dân Người, ngày này qua ngày khác. 60 Như thế mọi dân trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ðức Chúa chính là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác. 61 Các ngươi phải hết lòng với Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta mà bước đi theo các giới răn và tuân giữ các mệnh lệnh của Người như ngày hôm nay."

 

Hiến tế trong ngày Cung hiến Ðền Thờ (2Sb 7 :4-10)

62 Vua cùng toàn thể Ít-ra-en dâng hy lễ trước nhan Ðức Chúa. 63 Vua Sa-lô-môn sát tế hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên làm lễ kỳ an dâng lên Ðức Chúa; vua và toàn thể con cái Ít-ra-en cung hiến Ðền Thờ Ðức Chúa. 64 Ngày hôm ấy, vua thánh hiến phần giữa của Tiền đình ở trước Nhà Ðức Chúa; chính tại đây, vua dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của lễ kỳ an, vì bàn thờ bằng đồng trước nhan Ðức Chúa quá nhỏ không đủ chứa lễ toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của lễ kỳ an. 65 Dịp này, vua Sa-lô-môn cùng với toàn thể Ít-ra-en mừng lễ trước nhan Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta trong bảy ngày, rồi bảy ngày nữa là mười bốn ngày. Thật là một công hội vĩ đại quy tụ từ lối vào Cửa Ải Kha-mát tới suối Ai-cập. 66 Ngày thứ tám, vua giải tán dân. Họ cầu chúc vua khang an rồi ai nấy trở về lều mình, lòng vui mừng hân hoan vì mọi sự tốt lành Ðức Chúa đã làm cho Ða-vít tôi tớ Người và Ít-ra-en dân Người.

 

- Chương 09 -

 

Thiên Chúa lại hiện ra với vua Sa-lô-môn (2 Sb 7:11 -22)

1 Sau khi vua Sa-lô-môn hoàn tất việc xây Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua, cùng mọi công trình vua dự tính, 2 thì Ðức Chúa lại hiện ra với vua lần thứ hai, giống y như lần hiện ra với vua ở Ghíp-ôn. 3 Ðức Chúa phán với vua: "Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện và van nài trước nhan Ta; Ta đã thánh hoá ngôi nhà này mà ngươi đã xây để cho Danh Ta ngự ở đó muôn đời; Ta sẽ nhìn xem và ưa thích ở đấy mọi ngày. 4 Còn ngươi, nếu ngươi bước đi trước nhan Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, với tâm hồn trong sạch và ngay thẳng, mà thi hành mọi điều Ta truyền cho ngươi và tuân giữ các giới răn và luật pháp của Ta, 5 thì Ta sẽ củng cố ngai vàng của ngươi trên Ít-ra-en đến muôn đời, như Ta đã hứa với Ða-vít, thân phụ ngươi, rằng: "Ngươi sẽ không thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en". 6 Nhưng nếu các ngươi và con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối của Ta, không giữ các mệnh lệnh, các giới răn Ta đã đặt cho các ngươi, lại đi làm tôi các thần ngoại và thờ lạy chúng, 7 thì Ta sẽ tiêu diệt Ít-ra-en khỏi phần đất mà Ta đã ban cho chúng; còn Ðền Thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta, và Ít-ra-en sẽ thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu; 8 Ðền Thờ này sẽ thành đống hoang tàn, khiến mọi kẻ qua lại phải sững sờ, huýt sáo mà nói: "Tại sao Ðức Chúa đã xử như thế với đất nước và Ðền Thờ này? 9 Người ta sẽ trả lời: Tại chúng đã bỏ Ðức Chúa Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa tổ tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập; chúng đã gắn bó với các thần ngoại, sụp lạy và làm tôi các thần ấy, nên Ðức Chúa đã giáng xuống trên chúng tất cả tai hoạ này."

 

Buôn bán với vua Khi-ram (2 Sm 8:1-2)

10 Trong hai mươi năm vua Sa-lô-môn xây hai ngôi nhà, là Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua, 11 thì Khi-ram vua Tia cung cấp cho vua Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ trắc và vàng tuỳ thích; còn vua Sa-lô-môn thì trao cho vua Khi-ram hai mươi thành trong miền Ga-li-lê. 12 Từ Tia vua Khi-ram đi ra xem các thành vua Sa-lô-môn đã trao cho, nhưng vua không thích các thành ấy. 13 Vua nói: "Này ông anh, thành gì mà ông cho tôi vậy? " Rồi vua gọi các thành ấy là "đất Ca-vun" cho tới ngày nay. 14 Vua Khi-ram gửi tới cho vua Sa-lô-môn ba ngàn sáu trăm ký vàng.

 

Dân công để xây cất (2 Sb 8:3-11)

15 Ðây là dịch vụ dân công vua Sa-lô-môn đã đặt ra để xây Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện của mình, công trình Mi-lô, tường thành Giê-ru-sa-lem, Kha-xo, Mơ-ghít-đô và Ghe-de. 16 Pha-ra-ô vua Ai-cập đã tiến quân chiếm Ghe-de, thiêu huỷ thành và sát hại dân Ca-na-an cư ngụ ở đó; rồi vua tặng làm của hồi môn cho ái nữ là phu nhân của vua Sa-lô-môn. 17 Vua Sa-lô-môn xây dựng lại Ghe-de và Bết Khô-rôn Hạ,18 rồi Ba-a-lát và Ta-ma ở sa mạc, trong xứ, 19 và tất cả các thành làm kho dự trữ mà vua Sa-lô-môn sẵn có, các thành giữ xe trận, các thành nuôi ngựa và tất cả những gì vua Sa-lô-môn muốn xây cất ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-băng và trong toàn lãnh thổ thuộc quyền vua. 20 Tất cả những người còn sót lại thuộc các dân E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, những người không phải là con cái Ít-ra-en, 21 những người này đã để lại con cháu chúng trong xứ, vì con cái Ít-ra-en không tiêu diệt hết được. Vua Sa-lô-môn bắt tất cả những người đó phải lao động khổ sai đến ngày nay. 22 Phần con cái Ít-ra-en vua Sa-lô-môn không bắt ai phải làm nô dịch cho vua; họ là những chiến sĩ, những cận thần, những tướng lãnh, những viên chức, những người chỉ huy chiến xa và kỵ binh của vua. 23 Họ chỉ huy các đốc công phụ trách công trình của vua Sa-lô-môn, tất cả là năm trăm năm mươi người, giám sát dân chúng làm việc trong các công trình. 24 Khi công chúa của Pha-ra-ô từ Thành Ða-vít lên cung điện đã xây cho bà, thì vua Sa-lô-môn bắt đầu xây công trình Mi-lô.

 

Phục vụ Ðền Thờ (2 Sb 8:12 -16)

25 Mỗi năm ba lần, vua Sa-lô-môn dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an trên bàn thờ vua đã dựng lên để kính Ðức Chúa; vua thường đốt hương trên bàn thờ trước nhan Ðức Chúa. Thế là vua chu toàn bổn phận đối với Ðền Thờ.

 

3. Vua Sa-Lô-Môn, Nhà Kinh Doanh

 

Vua Sa-lô-môn, người tổ chức thương thuyền (2 Sb 8:17 -18)

26 Ngoài ra, vua Sa-lô-môn còn trang bị một đoàn tàu tại E-xi-ôn Ghe-ve, gần Ê-lát, bên bờ Biển Sậy trong đất Ê-đôm. 27 Vua Khi-ram phái tới đoàn tàu các tôi tớ của mình là những thủy thủ thạo nghề biển, cùng với các tôi tớ của vua Sa-lô-môn. 28 Họ đi Ô-phia, mang vàng về và nộp cho vua Sa-lô-môn, tất cả là mười hai tấn.

 

- Chương 10 -

 

Cuộc viếng thăm của nữ hoàng Sơ-va (2 Sb 9:1-12)

1 Nữ hoàng Sơ-va nghe biết vua Sa-lô-môn nổi tiếng vì danh Ðức Chúa, thì đến đặt câu đố để thử tài vua. 2 Bà đến Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo, nhiều lạc đà chở đầy hương liệu, và một số lượng rất lớn vàng cùng đá quý. Bà vào hội kiến với vua Sa-lô-môn và nói với vua tất cả những gì bà suy nghĩ trong lòng. 3 Vua Sa-lô-môn giải đáp tất cả những vấn đề bà đưa ra; không có chuyện gì là bí ẩn mà vua không giải đáp được cho bà. 4 Nữ hoàng Sơ-va thấy tất cả sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây, 5 những món ăn trên bàn của vua, dinh thự của quần thần, cung cách và trang phục của họ, các thứ rượu của vua, các lễ toàn thiêu vua tiến dâng tại Ðền Thờ Ðức Chúa, bà hết hồn, 6 bà nói với vua: "Những điều tôi đã nghe nói ở nước tôi về ngài và sự khôn ngoan của ngài quả là sự thật. 7 Tôi đã không tin những điều người ta nói, cho tới khi tôi đến và thấy tận mắt; nhưng thực ra người ta cho tôi biết chưa tới một nửa. Ngài còn khôn ngoan và giàu có hơn tiếng đồn tôi đã nghe. 8 Phúc thay thần dân của ngài! Phúc thay quần thần của ngài, những kẻ luôn luôn được túc trực trước mặt ngài và nghe biết sự khôn ngoan của ngài! 9 Chúc tụng Ðức Chúa Thiên Chúa của ngài, Ðấng đã ưu ái đặt ngài lên ngai Ít-ra-en; chính vì lòng yêu thương Ít-ra-en đến muôn đời, mà Ðức Chúa đã đặt ngài làm vua, để ngài thi hành luật pháp và công lý." 10 Và bà tặng vua ba ngàn sáu trăm ký vàng, một số rất lớn hương liệu và đá quý. Chưa từng có một số lượng hương liệu nhiều như nữ hoàng Sơ-va đã tặng vua Sa-lô-môn. 11 Cả đoàn tàu của vua Khi-ram, mang vàng từ Ô-phia về, cũng đưa rất nhiều gỗ đàn hương và đá quý từ Ô-phia về nữa. 12 Vua dùng gỗ đàn hương làm các cột trụ Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện nhà vua, đàn lia đàn hạc cho các ca sĩ; thứ gỗ đàn hương ấy không còn và cũng không thấy nữa cho tới ngày nay. 13 Vua Sa-lô-môn tặng lại nữ hoàng Sơ-va tất cả những gì bà ngỏ ý thích, chưa kể những gì vua tặng bà xứng với danh vua Sa-lô-môn hào hiệp. Sau đó bà lui gót, cùng với đoàn tuỳ tùng trở về xứ sở.

 

Sự giàu sang của vua Sa-lô-môn (2 Sb 9:13 -24)

14 Số vàng vua Sa-lô-môn thu nhập hàng năm là hai mươi ngàn ký, 15 không kể vàng do khách vãng lai, do các thương gia, do tất cả các vua Ả-rập và các quan thái thú trong nước đem nộp. 16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm chiếc thuẫn lớn bằng vàng gò; mỗi chiếc thuẫn phải dùng tới sáu ký vàng. 17 Vua còn làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ bằng vàng gò; mỗi chiếc mất một ký rưỡi vàng. Và vua đặt các thuẫn ấy trong Cung Rừng Li-băng. 18 Vua lại làm một cái ngai lớn bằng ngà và dát vàng ròng rất tinh vi. 19 Ngai có sáu cấp, phần trên của lưng ngai thì tròn; hai bên chỗ ngồi có tay tựa, đứng sát tay tựa là hai con sư tử, 20 và mười hai con sư tử đứng trên sáu cấp ở hai bên. Chẳng vương quốc nào làm được như thế.

21 Tất cả các chén để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng trong Cung Rừng Li-băng cũng bằng vàng ròng. Không có bạc, vì thời vua Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì cả. 22Quả vậy, vua Sa-lô-môn có một đoàn tàu biển đi Tác-sít, cùng với đoàn tàu của vua Khi-ram; và cứ ba năm một lần, đoàn tàu Tác-sít đến, mang theo vàng, bạc, ngà, khỉ và công. 23 Vua Sa-lô-môn là người trổi vượt hơn tất cả các đế vương trên mặt đất về sự giàu có và khôn ngoan. 24 Thiên hạ ai nấy đều mong diện kiến vua Sa-lô-môn để được nghe sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã ban cho vua. 25 Mỗi vị đều mang lễ vật: đồ bạc, đồ vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa. Cứ thế từ năm này qua năm khác.

 

Xa mã của vua Sa-lô-môn (2 Sb 1:24-17; 9:25-28)

26 Vua Sa-lô-môn tập trung xe và ngựa, xe có một ngàn bốn trăm cỗ, và ngựa có mười hai ngàn con. Vua để chúng ở các thành có xe, bên cạnh vua tại Giê-ru-sa-lem. 27 Vua đã làm cho bạc ở Giê-ru-sa-lem ra thường như sỏi đá, còn bá hương thì nhiều như sung ở miền Sơ-phê-la. 28 Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập từ Ai-cập và Cơ-vê. Các thương gia của vua đến tận Cơ-vê mua ngựa theo đúng giá. 29Một chiếc xe bán ra từ Ai-cập là sáu trăm se-ken bạc, và một con ngựa là một trăm năm mươi. Ðối với tất cả các vua Khết và các vua A-ram, nhờ các thương gia làm trung gian mua vào, thì cũng thế.