26 cây thập giá trên một ngọn đồi ở thành phố Nagasaki đầu năm 1597 là lễ dâng hoa trái đầu mùa của Hội Thánh Nhật Bản. Dòng Tên góp phần vào hiến tế ấy ba anh em người bản xứ: thánh Phaolô Miki, 33 tuổi, lúc ấy đang chuẩn bị chịu chức linh mục; thánh Giacôbê Kisai, 64 tuổi, tu huynh; thánh Gioan Soan, 19 tuổi, giáo lý viên đang tìm hiểu Dòng Tên. Các vị còn lại gồm 6 thừa sai dòng thánh Phanxicô và 17 giáo dân mà người trẻ nhất mới 11 tuổi.
(1030 - 1079) Bất cứ ai đọc lịch sử Ðông Âu đều phải biết đến tên Stanislaus, vị Giám mục thánh thiện nhưng bi thương của giáo phận Krakow. Cùng với các Thánh Tôma More và Tôma Becket, ngài thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết liệt của ngài đối với một chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy. Thánh Stanislaus sinh trong một gia đình quý tộc ở Szczepanow gần Krakow. Ngài theo học các trường Công Giáo ở Gniezno, sau đó ở thủ đô Ba Lan, và ở Balê. Ngài thụ phong linh mục ở Gnesen và được bổ nhiệm làm Tổng phó tế và người thuyết giáo của Ðức Giám Mục Krakow,
Thánh Macrina là bà nội của Thánh Basil Cả mà chúng ta mừng kính vào ngày 2-1. Dường như Thánh Macrina đã nuôi dưỡng Thánh Basil Cả và khi lớn lên thánh nhân đã không ngớt lời ca tụng công việc lành phúc đức của bà nội. Ðặc biệt, thánh nhân đã nhắc đến việc giáo dục đức tin của bà khi thánh nhân còn nhỏ. Thánh Macrina và chồng đã phải trả một giá rất đắt khi theo Ðức Kitô. Trong thời kỳ bách hại của các hoàng đế La Mã Galerius và Maximinus, hai ông bà đã phải đi trốn. Họ tìm thấy một nơi ẩn náu trong rừng gần nhà. Bằng cách nào đó, họ đã thoát khỏi sự bách hại. Họ luôn luôn bị đói khát và lo sợ nhưng không mất đức tin.
(496 - 576) Thánh Germain là một đan viện trưởng với đặc tính thương người nghèo và chia sẻ của cải cho họ đến độ các đan sĩ phải phản đối, nếu không đan viện sẽ không còn gì để sống. Ngài sinh ở Autun nước Pháp, theo học tại Avalon và Luzy dưới sự dẫn dắt của người chú là một Linh mục. Sau khi làm đan viện trưởng của Ðan Viện Thánh Symphorien gần Autun, năm 555 ngài được Vua Childebert chọn làm giám mục Balê, sau khi Ðức Giám Mục Eusebius từ trần. Trong thời gian làm giám mục, ngài vẫn giữ lối sống kham khổ của đan viện và luyện tập các nhân đức. Ngài tham dự các Công Ðồng Balê III và IV (557, 573) cũng như Công Ðồng Tour II (566).
(1515 - 1595) Thánh Philíp Nêri, vị "Tông Ðồ của Rôma", là một trong những khuôn mặt lớn của cuộc Cải Cách Công Giáo. Một trong những điều đáng kể của thánh nhân là ảnh hưởng của ngài, dù ngài không viết một cuốn sách, không đề nghị một học thuyết gì mới mẻ, và cũng không khởi xướng một phong trào linh đạo nào. Nhưng tinh thần vui tươi và thánh thiện của ngài đã làm sống dậy tinh thần đạo đức ở Rôma vào thời ấy. Thánh Nêri sinh ở Florence, nước Ý năm 1515. Ngay từ khi còn trẻ, ngài đã khước từ cơ hội để trở thành một doanh gia và lên Rôma với ý định tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa.
(1303 - 1373) Từ lúc bảy tuổi trở đi, Thánh Bridget đã được thị kiến Ðức Kitô trên Thánh giá. Các thị kiến ấy làm nền tảng cho đời sống thánh nữ -- luôn luôn chú trọng đến đức ái hơn là trông đợi các ơn huệ thiêng liêng. Thánh Bridget là một người trong Hoàng gia Thụy Ðiển, được thừa hưởng sự đạo đức của cha mẹ, ngay từ nhỏ ngài đã yêu quý sự Thống Khổ của Ðức Kitô. Khi mười bốn tuổi, vâng lời cha, ngài kết hôn với vua Thụy Ðiển là Magnus II và có tám người con (người con thứ là Thánh Catarina ở Thụy Ðiển). Sau khi nhà vua từ trần ngài sống một cuộc đời rất khổ hạnh.
(1381 - 1457) Trong nhiều thế kỷ, Thánh Rita ở Cascia là một trong những vị thánh nổi tiếng của Giáo Hội Công Giáo. Người ta thường gọi ngài là "Vị Thánh Bất Khả," vì bất cứ điều gì nhờ ngài cầu bầu đều được Thiên Chúa nhận lời. Thánh Rita sinh ở Spoleto, nước Ý năm 1381. Ngay từ nhỏ ngài đã muốn dâng mình cho Chúa, nhưng vì vâng lời cha mẹ già, ngài phải kết hôn với một ông chồng thô bạo và nóng nảy. Trong 18 năm, ngài kiên nhẫn dùng sự cầu nguyện và tử tế để đối xử với ông chồng luôn khinh thường và gian dâm. Sau cùng ông đã ăn năn hối lỗi và bị giết vì một mối thù truyền kiếp.
Đức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô." Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mácta, người em Maria, và người anh Lagiarô của Thánh nữ. Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10:38-42, Gioan 11:1-53, và Gioan 12:1-9.
Gần ngày qua khỏi đời này để về với Chúa Cha, gần ngày được rời thân thể để về với Đức kitô như lòng mong ước, thánh Antôn linh cảm người sắp thở hơi cuối cùng, sắp được hưởng vinh quang trên trời. Những gì nói sau đây minh chứng điều ấy. Một hôm, trên đỉnh đồi cao, nhìn xuống ngắm cảnh Pađôva giữa cánh đồng bát ngát bao quanh, tâm hồn người dâng cao, người khen vẽ đẹp của thành phố và nói với anh bạn rằng thành phố sắp được vẻ vang: ý người muốn nói đến cái chết diễm phúc và cuộc lễ an táng của người, và di hài người, như kho báu, sẽ lôi cuốn đến Padova đông đảo khách hành hương. Các phép lạ phi thường luôn sẽ là vinh quang của thành phố.
Là tu sĩ nghèo, lại được đào tạo trong hội những người nghèo ngay từ buổi đầu, thánh Antôn mỗi ngày mỗi triền miên trong cảnh nghèo, để có tinh thần nghèo. Người quan tâm không bao giờ và không vì một lý do nào tách rời khỏi đức nghèo. Người thường xuyên suy niệm đức nghèo của Chúa Giêsu và của Mẹ Chúa. Khi giảng về đức nghèo cho anh em hoặc cho dân chúng, người thường nhắc lời Tin Mừng: Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con người không có hòn đá gối đầu, hoặc lời sách Huấn Ca: Không gì có tội cho bằng ham mê tiền bạc, như bài giảng thứ nhất trong sách các bài giảng ngày Chúa nhật của người minh chứng, cũng trong bài giảng này người nói Chúa đã so sánh của cải như gai góc, vì của cải cản đường người có của, đâm đau và đâm chảy máu.
Vào thời Thiên Chúa bắt đầu dùng lời khuyên dạy và gương mẫu của thánh Phanxicô, vị thánh cầm cờ hiệu đi trước Đức Kitô, để chiếu sáng thế gian, có một vị, cuộc đời đáng tôn kính, ai cũng xưng tụng nhân đức và quyền năng, khi là Kinh Sĩ Tại Viện, người có tên là Fernando, tên rửa tội, khi theo giữ Luật Dòng Anh Em Hèn Mọn, người có tên là Antôn. Ở hai giai đoạn đời nói trên, người được ơn Chúa ban như sương sa, như ta sẽ thấy, lúc đọc truyện người.
Lạy ơn ông Thánh An Tôn là thánh cả xưa còn ở thế gian hay làm phép lạ cứu muôn vàn người khỏi hoạn nạn phần hồn, ph62n xác, mà rầy ở trên trời, càng được quyền thế, càng khấng thương làm phúc cứu mọi kẻ gian nan khốn khó, chúng con bần cùng, khốn cực mọi đàng, xin người ghé mặt lại thương xem chúng con, mọi khi túng ngặt chay đến cùng người. Lại xin bầu cử cho chúng con được học đòi bắt chước người mà tin cậy cho vừng vàng, kính mến cho sốt sắng, giữ đạo cho trọn, và đến giờ chết đem linh hồn chúng con lên Thiên Đàng ngợi khen, hát mừng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ làm một cùng người đời đời chẳng cùng. Amen.
Antôn Pađua sinh năm 1195 tại Lisbonne thủ đô nước Bồ Đào Nha, trong một gia đình quyền quý và đạo đức. Vốn được giáo dục theo tinh thần Phúc Âm nên ngài sớm ý thức được việc dâng mình cho Chúa. Đầu tiên, ngài nhập dòng thánh Augustinô và được chịu chức linh mục tại đó. Cảm thấy lí tưởng sống khiêm tốn và khắc kỉ hợp với mình hơn và nhất là ngài ao ước được truyền giáo cho dân ngoại và được tử đạo, nên ngài đã xin gia nhập dòng Phanxicô năm 1220. Tại đây, ngài được bề trên sai đi truyền giáo cho dân Sarrasins ở Phi châu, thể theo ý nguyện của ngài.
Sắc lệnh ghi nhận rằng các tín hữu trong Hội thánh Công giáo luôn tỏ lòng sùng mộ Thánh Giuse và không ngừng tôn kính Ngài là Bạn rất thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa và là Đấng bảo trợ trên trời của Giáo hội hoàn vũ. Vì lý do này mà Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã truyền đưa thêm tên Thánh Giuse vào Lễ quy Rôma, sau tên của Mẹ Maria (Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Novis hisce temporibus, 13-11-1962).
Tổng số Album nhạc: 601
Tổng số video: 75
Tổng số nhạc MP3: 7,245
Thư viện lời nhạc: 21,805